Monday, December 15, 2008

20 năm sau đọc lại "Phía đông vườn địa đàng"

Trong những bậc thầy văn chương Mỹ hiện đại từng được nhận Giải thưởng Nobel, kể từ Sinclair Lewis cho tới Ernest Hemingway, J. Steinbeck có hẳn một vị trí và thành tựu riêng, độc lập. Ở ông có chất hài hước mà trong chừng mực nào đó bù đắp cho cái chủ đề thường là độc địa và thô bạo của ông. Thiện cảm của ông bao giờ cũng dành cho kẻ bị áp bức, kẻ không có khả năng thích nghi, kẻ đang suy sụp tuyệt vọng; ông muốn đem cái niềm vui giản dị đời thường đối lập lại với sự thèm khát tiền bạc đến độ độc ác và trâng tráo. Nhưng trong ông ta còn bắt gặp khí chất Mỹ trong tình cảm lớn lao đối với thiên nhiên, đối với đất trồng, hoang địa, núi non và các bờ đại dương, tất cả đều trở thành suối nguồn cảm hứng không bao giờ cạn cho J. Steinbeck giữa thế giới những người đang sống và vượt xa ngoài cái thế giới đó. Sở dĩ Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển trao Giải thưởng này cho John Steinbeck ấy là “vì những tác phẩm văn chương vừa hiện thực vừa đầy hoang tưởng, nổi bật với một sự hài hước đầy cảm thông và một cách nhìn xã hội thấu đáo." ….. ( Tuyên dương của Viện hàn lâm Thụy Điển)

Vào năm 1952, cuốn tiểu thuyết “Phía Đông của Vườn Địa đàng” (East of Eden) được xuất bản. Đây là câu truyện khó nhất và quan trọng nhất của John Steinbeck, ở cách tái tạo và lý giải câu chuyện theo Thánh Kinh kể về Cain và Abel, lồng vào trong lịch sử của thung lũng Salinas qua ba thế hệ của một gia đình sinh sống ở đây, từ thập niên 1860 tới Thế Chiến Thứ Nhất. Và chúng ta có thể bắt đầu.

Sách Sáng thế ký, đoạn 4 câu 1-16:

Ca-in và A-ben

Con người ăn ở với E-và, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Ca-in. Bà nói: “Nhờ Đức Chúa, tôi đã được một người.” Bà lại sinh ra A-ben, em ông. A-ben làm nghề chăn chiên, còn Ca-in làm nghề cày cấy đất đai. Sau một thời gian, Ca-in lấy hoa màu của đất đai làm lễ vật mà dâng lên Đức Chúa. A-ben cũng dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng. Đức Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Ngài không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt. Đức Chúa phán với Ca-in: “Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt? Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chế ngự nó”. Ca-in nói với em là A-ben: “Chúng mình ra ngoài đồng đi!” Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông đến giết A-ben, em mình.

Đức Chúa phán với Ca-in: “A-ben em ngươi đâu rồi?” Ca-in thưa: “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?” Đức Chúa phán: “Ngươi đã làm gì? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên ta!” Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất.” Ca-in thưa với Đức Chúa: “Hình phạt dành cho con quá nặng không thể mang nổi. Đây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con.” Đức Chúa phán với ông: “Không đâu! Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bẩy.” Đức Chúa ghi dấu trên Ca-in, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông. Ông Ca-in đi xa khuất mặt Đức Chúa và ở tại xứ Nốt, về phía đông Ê-đen. (Bản dịch 1998 – Tòa TGM Sài Gòn).

Những năm 1971-1972, hồi còn nhỏ, tôi có đọc kinh thánh bằng truyện tranh có tựa đề “Sấm truyền cũ” và được biết câu chuyện bi thương này, Tôi còn nhớ hình ảnh lò thiêu thấp cở ngang tầm thắt lưng là ba cục đá lớn được xếp thành lò trên mặt của một phiến đá lớn, trên miệng lò có con chiên nằm trên trong ngọn lửa đang rực cháy và khói bốc thẳng lên không trung, ở hình bên cạnh cũng là một cái lò thiêu ở trên miệng lò những hoa trái được xếp vội vàng, xộc xệch, không có hình những lưỡi lửa, chí có những làn khói nhẹ bay ra, là là về phia chân trời…. và được giải thích là Ca-in đã dâng lên Đức Chúa những lễ vật không được chuẩn bị và là những vật phẩm không phải là cái tốt mà Ca-in đang có… Và trong suy nghĩ của tôi thì Ca-in thật là xấu xa và đáng bị trừng phạt.

Khi tôi đọc cuốn “Phía đông vườn địa đàng” của John Steinbeck khoảng năm 1987, do một người bạn tên Khang cho mượn. Tôi thấy câu truyện cuốn hút một phần vì có liên quan đến vườn địa đàng, đến đoạn trích trong sách Sáng thế ký, một cuốn sách mở đầu trong Kinh Thánh của Thiên Chúa Giáo, một phần vì tính nhân văn, tính lôgic trong suy nghĩ, cách dẫn truyện rất phù hợp với tâm lý của từng nhân vật. Nhưng nổi trội là cách đặt vấn đề (con người có sẵn tính ghen ghét trong mình, dễ phạm tội ác khi lòng tự ái bị tổn thương) và cách lý giải của tác giả qua hoàn cảnh của các nhân vật trong truyện. Một cuốn truyện để lại trong tôi nhiều kỷ niệm.

Năm 2004, trong một lần ghé nhà sách Tân Bình mua sách giáo khoa cho mấy nhỏ nhân đầu năm học mới. Tôi đã mua cuốn truyện này do ông Đinh Văn Quý dịch và được nhà xuất bản Văn hóa thông tin phát hành. Một lý do nào đó tôi đã cất cuốn truyện đi mà không đọc lại.

Tháng trước, nhân lúc tìm một cuốn sách về quản trị tài chính tôi tình cờ cầm lại cuốn truyện và tôi đã quyết định đọc lại tác phẩm này một lần nữa.

Câu chuyện xảy ra ở thung lũng Salinas ở về phía bắc tiểu bang California . Qua những thế hệ được nhắc tới và đang làm ăn sinh sống ở đây cùng với sự đổi thay của nước Mỹ, John Steinbeck (tác giả) muốn lý giải tại sao Đức Chúa không nhận của lễ của Ca-in, Ca-in có độc ác như hành động của anh ta? và Ca-in hay đúng hơn là chúng ta “có thể chế ngự được tội lỗi?”.

Khởi đầu là ông Cyrus Trask, một cựu chiến binh của cuộc nội chiến Mỹ. Một người đã quen với kỷ luật, với những mệnh lệnh phải thi hành và có một chút khe khắt, độc đoán trong cách suy nghĩ cũng như cách hành xử. Ông có hai người con trai, Adam Trask là anh, người con thứ với bà vợ kế là Charles Trask. Adam mồ côi mẹ, sống khép kín, yếu đuối hơi nhu nhược. Charles mạnh mẽ, sẵn sàng khắc phục mọi trở ngại để lướt thắng, bạo dạn đến độ liều lĩnh.

“Chẳng bao lâu sau. Ngày kỷ niệm sinh nhật của ông Cyrus, một cuộc khủng hoảng đã xảy đến trong gia đình. Hai cậu con đều tặng quà sinh nhật cho cha. Adam tặng cha một con cún lai, mà anh bắt được trong rừng để cha nuôi làm chó săn. Còn Charles thì tặng cha một con dao ba lưỡi có lò xo và cán nạm ngọc trai để ông có thể làm việc trong nhiều giờ liên tiếp. Ông Cyrus bồng con chó lên tay vuốt ve rồi đem nó vào phòng riêng. Ông nói mấy tiếng cám ơn về con dao Charles tặng, nhưng không bao giờ dùng tới. Charles chua chát càu nhàu: “Ông chẳng bao giờ thèm mó tới!”. Bị chạm tự ái, lòng ganh tị ở Charles mỗi ngày một tăng đến độ làm anh cuồng trí. Một đêm kia gặp Adam một mình trên đường làng, Charles đã đánh anh mình một trận nhừ tử không chút xót thương. Sau đó, Charles còn chạy về nhà tìm một cái rìu. Nếu Adam không nhanh chân chui xuống ẩn dưới cái mương bên vệ đường, thì Charles đã giết chết anh rồi. Charles trốn biệt hai tuần lễ sau vụ đó. Khi anh ta lò dò trở về thì cơn giận của ông bố đã nguội bớt chỉ còn lại sự tức giận ngấm ngầm. Charles tự chuộc lỗi bằng cách căm cụi làm việc suốt ngày và thầm ân hận.”

Một thời gian sau, Adam nhập ngũ, phục vụ trong quân đội hơn mười năm, Adam trở về nông trại sống với Charles (lúc này ông Cyrus đã qua đời). Cuộc đời của Adam vẫn âm thầm tẻ nhạt như bị một lớp mạng nhện bụi băm che phủ. Bỗng Cathy Ames xuất hiện như một luồng hào quang chiếu rọi vào cuộc đời của anh, làm thay đổi tất cả.

“Tôi tin rằng trên đời này có ma quỷ len lỏi để phá hoại loài người: đó là loại ma quỷ hiện hình người, và loại ma quỷ siêu hình. Cũng như có đứa trẻ được sinh ra thiếu một tai thì cũng có người sinh ra thiếu lương tâm. Theo tôi nghĩ thì Cathy Ames thuộc hạng người đó….. Dù bản chất của nàng độc ác và con người của nàng chỉ là một cạm bẫy, nhưng thọat nhìn ai cũng tưởng nàng hiền lành ngây thơ….. Trong ánh mắt nàng, có một vẻ gì kỳ bí mà người ta không thấy lại được khi nhìn lần thứ hai…. Cathy hay nói dối, nhưng nàng không có cái lối nói dối vô tư như phần lớn các trẻ em. Những vụ nói dối của nàng đều có sắp đặt và vụ lợi. Bao giờ nàng cũng nói lửng lơ gần sát với sự thật để không ai nghi ngờ gì rồi dựa theo đó nàng chen vào một chuyện không có thật hoặc nàng kể một chuyện thật bằng lối nói quanh co ỡm ờ như chuyện bịa. Nhờ nghệ thuật đó, nếu ai có nghi ngờ một chuyện nào là dối trá, nhưng rồi chuyện đó lại xảy ra thật thì những chuyện bịa đặt khác của nàng cũng đâm ra có thể là những chuyện thật hết.”

Bỏ ngoài tai những lời can ngăn của Charles (vì không nắm được lý lịch của Cathy), Adam cương quyết cưới Cathy. Anh bán rẻ nửa nông trại phần mình cho Charles. Số tiền đó cộng với nửa phần tiền của cha để lại, vợ chồng Adam trở nên giàu có và tự do… và họ đã định cư tại thung lũng Salinas . Cuộc đời của Adam từ trước tới nay chỉ là những chuỗi ngày buồn nản, nhưng bây giờ chàng mới bắt đầu cảm thấy tươi sáng. Ngồi nhìn nông trại mình mới tậu, căn nhà đầy đủ tiện nghi đang hoàn thành. Adam nuôi rất nhiều hy vọng ở tương lai, nhưng chàng cũng khá thỏa mãn với hiện tại. Chàng thấy lòng tràn ngập niềm vui khi nhìn Cathy ngồi yên lặng dưới ánh mặt trời với đứa con đang lớn dần trong bụng. Nhưng đối với nàng cái thai là một rủi ro ngoài ý muốn. Nó là cái bẫy kẹp cứng chân nàng lại. Nàng không có ý định sống gắn bó với Adam và cuộc sống hiện tại, nàng đủ mạnh mẽ để sống một cuộc sống độc lập theo cách riêng của nàng. Cuối cùng việc gì đến thì nó đến. Cathy đã bỏ nhà ra đi sau khi sinh được khoảng nửa tháng.

“Trong bàn tay phải của nàng là khẩu Colt 44, mũi súng đen ngòm chĩa thẳng vào chàng. Chàng bước tới một bước. Cò súng kéo lùi về phía sau. Nàng nổ súng vào chàng. Viên đạn sướt vào vai, xé rách một mảng thịt. Tia lửa và tiếng nổ làm chàng hoảng vía bật ngửa té xuống sàn nhà…Chàng nghe bước chân nàng ngoài thềm dẫm lên đống lá sồi khô cong queo trên lối đi và cuối cùng mất hút. Trong lúc đó, chàng nghe rõ tiếng khóc đều đều của hai đứa bé song sinh vì khát sữa. Chàng đã quên cho nó bú.”

Adam đã buông xuôi tất cả, đau buồn vẫn xâm chiếm cả tâm hồn chàng. Trong nhà chỉ còn chú Lee, chú đầu bếp người Tàu, cũng cố an ủi thúc đẩy Adam hiểu ra thực tại, nhưng chú quá bận. Chú nấu nướng giặt giũ, tắm rửa cho hai đứa bé và lo cho chúng ăn ngủ. Chú yêu thích hai đứa bé và như để đền ơn chú những lời nói bập bẹ đầu tiên của chúng là tiếng Trung Hoa.

Mười một năm sau kể từ lúc Cathy bỏ ra đi. Với một lòng tốt phát ra từ một tâm hồn đầy nhân ái, ông Samuel Hamilton (gia đình Hamilton định cư ở Salinas đã lâu) hàng xóm của Adam Trask, nhân dịp ông đến chào chia tay với Adam để đến sống với một người con gái tên là Olive và đây là cuộc đối thoại:

Samuel hỏi nhanh.

- Anh Adam, anh có yêu thích đời sống của mình không?

- Dĩ nhiên là không.

- Vậy nếu tôi có một liều thuốc vừa có thể chữa lành căn bệnh bi quan, nhưng đồng thời cũng có thể giết chết anh thì anh có sẵn sàng nhận không!

Lee vội can:

- Ông Hamilton, xin ông cẩn thận một chút.

Samuel ôn tồn nói:

- Chú cứ yên tâm, tôi nghĩ rằng lần này tôi không cần cẩn thận nữa. Nếu tôi sai lầm tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm. Adam, anh cần liều thuốc đó không?

- Vâng, tôi không biết liều thuốc đó loại gì, nhưng tôi sẵn sàng xin nhận.

- Anh Adam, Cathy hiện đang ở tại Salinas. Nàng đã đổi tên là Kate và là chủ một ngôi nhà chuyên làm chuyện xấu xa tồi bại nhất trong xứ. Đó là liều thuốc mà tôi định trao cho anh. Để xem nó sẽ có phản ứng nào đối với anh.

- Ông nói láo. Adam lớn tiếng.

- Không đâu, tôi có nhiều tính xấu nhưng nói láo nhất định là không.

Adam gầm lên hỏi Lee:

- Có đúng vậy không?

- Tôi không có liều thuốc giải độc nào hơn. Lee nói. Quả đúng như vậy.

Adam hơi loạng choạng trước ánh đèn bão rồi vụt bỏ chạy. Họ nghe tiếng những bước chân nặng nề của chàng đang chạy và thỉnh thoảng vấp một cái. Họ nghe rõ tiếng chàng bị vấp ngã vào bụi cây, tiếng chân khập khiễng lê bước lên dốc đồi. Tiếng chân dừng lại khi chàng đã lên tận đỉnh đồi.

….

Khi nghe tiếng gõ cửa, nàng khó khăn lắm mới thốt được mấy tiếng.

- Mời vào.

Adam liếc quanh thấy Kate đang ngồi lặng lẽ sau bàn giấy. Chàng ngắm nàng rồi từ từ tiến về phía nàng.

Adam nhận ra vết thẹo, cặp môi và chiếc cổ có ngấn của nàng. Chàng khẽ thở dài.

Bàn tay của Kate hơi run. Nàng hỏi:

- Anh muốn gì ?

Adam ngồi xuống một chiếc ghế dựa cạnh bàn giấy. Chàng muốn khóc vì xúc động nhưng có trấn tĩnh nói:

- Bây giờ tôi cũng chẳng còn muốn gì nữa. Tôi chỉ muốn đến thăm em một lát thôi. Ông Samuel Hamilton cho tôi biết em ở đây.

Kate dựa người vào thành ghế, mỉm cuời nói:

- Anh làm tôi phát sợ. Tôi không biết anh định đến đây để làm gì.

- Tôi cũng chẳng biết đến để làm gì. Adam thẫn thờ nói và tiếp tục nhìn nàng chòng chọc như nàng không phải là người sống thật.

- Từ lâu nay, tôi vẫn mong gặp anh nhưng không thấy anh đến, tôi tưởng đã quên được anh.

- Tôi vẫn chưa quên em, nhưng bây giờ thì tôi có thể quên được rồi. Chàng nói.

- Anh nói như vậy nghĩa là thế nào?

Chàng cười lớn:

- Tôi chỉ muốn nói rằng, bây giờ gặp lại em, đã thấy lại khuôn mặt mà từ lâu nay chỉ là một hình ảnh trong ký ức. Vậy bây giờ tôi có thể quên em được rồi.

Nàng nheo mắt hỏi:

- Anh tin rằng anh có thể quên sao?

- Tôi tin rằng tôi có thể quên được.

Chàng tự nhiên cảm thấy nhẹ nhõm và tự tin ở mình, điều mà từ nhiều năm qua chàng không có được.

Đám tang ông Samuel và cuộc tái ngộ với Kate đáng lẽ làm cho Adam buồn bã và cay đắng hơn, nhưng trái lại, chàng cảm thấy vui vẻ trẻ trung và yêu đời hẳn lên.

Aron, Caleb (thường gọi là Cal ) là tên của hai cậu bé song sinh con của Adam. Càng lớn chúng lại càng khác nhau, từ hình thể đến tâm tính. Cal trông rất giống Adam. Tóc nó màu nâu sậm. Nó cao to hơn anh, cằm vuông đầy vẻ cương quyết. Mắt nó cũng màu nâu và trầm ngâm, đôi lúc sáng ngời lên như màu đen và những lúc như thế trong Cal thật dữ dội. Aron mắt xanh, da trắng với mái tóc vàng ánh và vẻ cởi mở ngoan ngoãn của mình, Aron được nhiều cảm tình của người đối diện. Hai anh em vô tư lớn lên trong tình yêu thương của người đầu bếp trung thành và tốt bụng. Nhưng nỗi hoài nghi về người mẹ đã chết cũng lớn lên trong suy nghĩ của chúng. Năm Cal mười sáu tuổi, tình cờ Cal biết được sự thật về mẹ mình, Khi biết đuợc sự thật thì càng thương bố bao nhiêu thì Cal càng ghét mẹ mình bấy nhiêu. Aron cũng đang trải qua thời kỳ trưởng thành, nhưng chàng có khuynh hướng nghiêng về tôn giáo hơn, chàng muốn trở thành một linh mục. Chàng tin vào những điều tốt đẹp mà thế giới phải có, chàng quá thánh thiện, chàng tự hào về mình,về gia đình đến mức Cal không dám hé răng nói bất kỳ một lời nào về bà mẹ.

Thời gian từ từ trôi đi, nhưng để lại dấu ấn của sự trưởng thành cũng như bao nhiêu hệ lụy đối với gia đình Adam Trask. Vào buổi tối của lễ Tạ ơn, buổi tối của sự họp mặt các thành viên trong gia đình.

Mọi người nâng ly chúc cho sức khỏe nhau. Khi đã ăn hết phần bánh pudding, ông Adam nói:

- Tôi thấy chúng ta chưa bao giờ ăn một lễ Tạ ơn nào tuyệt như vậy.

Cal thò tay vào túi áo blouson lấy ra gói quà cột ruy băng đỏ đẩy tới trước mặt cha.

- Cái gì vậy? Ông Adam hỏi.

- Dạ, đó là một món quà cho ba.

Ông Adam tỏ vẻ không hài lòng nói:

- Chưa đến lễ Giáng sinh mà đã có quà rồi. Không biết cái gì trong này đây.

- Chắc là một chiếc khăn tay. Abra đoán.

Ông Adam tháo rút cái nơ và mở lớp giấy mỏng. Ông trố mắt nhìn xuống xấp giấy bạc.

Abra đứng dậy nhìn cho rõ hỏi:

- Cái gì vậy?

Chú Lee đứng ở ngưỡng cửa nhà bếp, chú để ý quan sát nét mặt của ông Adam với vẻ lo lắng. Chú liếc nhanh về phía Cal và thấy trong ánh mắt cậu ta ngời lên niềm hân hoan đắc thắng.

Ông Adam từ từ đẩy mớ giấy bạc vàng ánh ra. Giọng ông thật xa xăm:

- Cái gì vậy? Cái gì…

Cal nuốt nước bọt giải thích:

- Đó … là số tiền con đã làm ra được…để tặng ba… để bù vào số tiền đã bị mất vì vụ rau diếp.

Ông Adam từ từ ngẩng mặt lên hỏi:

- Con đã làm ra số tiền đó hả? Bằng cách nào vậy?

- Con hùn với chú Will Hamilton…buôn đậu. Nó vói nhanh. Con và chú ấy đặt mua trước với giá năm xu một cân và chờ đến lúc giá đậu tăng vọt mới đem bán. Mười lăm ngàn đồng này là tiền lời kiếm được. Con tặng cho ba.

Ông Adam sắp những tờ giấy bạc mới lại cho ngay ngắn rồi gói lại cẩn thận. Ông thất vọng nhìn chú Lee…Cal có cảm giácnhư một tai biến vừa mới xảy ra, một sụp đổ vừa ập tới khi nghe cha mình nói:

- Mày phải đem số tiền phi nghĩa này trả lại cho những người dân mà mày đã lấy của họ.

- Trả lại cho hãng buôn Anh quốc British Purchasing Agency à? Họ không thể nhận lại số tiền đó. Họ đang lùng mua khắp nước với giá mười một xu một cân đậu mà ba.

- Vậy thì mày hãy đem trả thêm cho những người nông dân mà mày đã cướp công của họ.

- Sao ba lại bảo là cướp công được? Cal gào lên. Tụi con mua cho họ cao giá hơn thị trườngđến một xu rưỡi một cân. Tụi con không cướp giật của ai hết.

Cal cảm giác như mình bị treo lơ lửng giữa khoảng không và thời gian như chậm hẳn lại.

….

- Con sẽ đem cất số tiền này. Con sẽ giữ cho ba. Cal nói nhanh.

- Không, ba sẽ không bao giờ đụng tới món tiền này. Ba sẽ lấy làm sung sướng nếu con cũng tặng cho ba món quà như anh con đã làm. Ba hãnh điện vì những gì nó đang làm.

Cặp mắt ông mở lớn hơn một chút nữa và ông nói tiếp:

- Ba đã làm con bất bình phải không? Đừng giận ba. Nếu con muốn tặng cho ba một món quà, thì con chỉ cần cho ba một đời sống lương thiện của con. Đối với ba, đó là món quà nhất rồi.

Cal cảm thấy nghẹn trong cổ họng. Trán cậu mồ hôi toát ra chảy xuống ròng ròng thấm vào môi mặn đắng.

….

Đêm tháng mười một đã buông hẳn xuống. Cal lách ra khỏi nhà bếp, ngang qua khoảng sân nhà bếp, bước ra ngoài.

Đầu óc Cal gân như tê liệt. Câu thấy bóng Aron dưới ánh đèn đướng cách đó khoảng ba dãy phố, đang đi về phí mình. Chì cần nhìn lối bước chân khá dài và dáng dấp Cal cũng đủ biết ngay là anh nó.

Cal bước chậm lại và khi Aron đến sát bên mình, cậu liền lên tiếng:

- Hì, tôi đang tìm anh đây.

- Anh rất buồn vì những việc xảy ra hồi chiều. Aron nói.

- Anh có can thiệp được gì đâu. Thôi quên vụ đó đi.

Rồi cậu quay ngược lại cùng sóng bước lên cạnh Aron và nói:

- Tôi muốn chỉ cho anh thấy cái này lạ lắm.

- Cái gì vậy?

- Ồ, cái này lạ và hay lắm. Anh sẽ ngạc nhiên vô cùng.

- Được rồi nhưng có lâu lắm không?

- Không. Không lâu đâu. Mau lắm.

Hai anh em đi ngang đại lộ Central Avenue rẽ qua đường Castroville Street.

…..

Trong ngôi nhà ở đường Castroville Street, bà Kate ngồi lặng nhìn sững vào khoảng không trước mặt hết giờ này qua giờ khác. Nét mặt bà hoàn toàn vô cảm xúc. Bà không suy nghĩ gì cả. Tâm trí bà trôi lơ lửng giữa các cảm xúc như con dơi bay lơ lững trong đêm. Bà nhớ lại khuôn mặt của cậu con trai tóc hung hung vàng thật đẹp trai và cặp mắt long lanh lên điên dại vì thất vọng sững sờ. Bà còn nghe rõ bên tai những lời lẽ thậm tệ của nó nhằm vào bà thì ít mà nhằm vào chính nó thì nhiều. Bà thấy người em song sinh có nước da hơi sậm đứng tựa cửa cười hinh hích.

….

Nét mặt chú Lee lộ vẻ xót xa đau đớn. Chú tới sát đầu giường nguời bệnh và kéo góc khăn trải giường lên lau sơ khuôn mặt đẫm mồ hôi của ông Adam. Chú nhìn xuống cặp mắt nhắm nghiền của người bệnh, thì thầm:

- Cảm ơn Adam, ông bạn vong niên của tôi. Ông có thể nhếch môi cố gắng tạo thành tiếng Cal thôi cũng đủ rồi.

Ông Adam nhìn lên một cách khó nhọc. Đôi môi ông cố mấp máy nhưng thất bại, ông cô gắng một lần nữa. Ngực ông căng lên. Ông hít hơi vào, môi ông mấp máy thành tiếng thở dài. Tiếng thều thào của ông như lơ lững trong không khí:

- “Timshel”.

Mắt ông nhắm nghiền lại và ông nằm im.

Câu chuyện đã dừng lại tại đây với một từ ngữ cổ Do Thái theo nguyên tác của sách Sáng thế ký, mà tác giả đã giải thích xuyên qua những bản dịch ra tiếng Mỹ bởi các dịch giả khác nhau, ở những lần xuất bản khác nhau. “Ngươi phải chế ngự nó”, “Ngươi phải kiềm chế nó” hay “Ngươi có thể chế ngự nó”, điều này tôi cần phải ghi nhớ mà suy ngẫm.

Gấp cuốn truyện lại, tôi không còn ghét Cain mà còn cảm thấy tội nghiệp vì anh ta không bao giờ có cơ hội làm lại. Cái may mắn của Adam khi thoát khỏi cuộc săn đuổi của Charles cũng là cái may mắn của Charles. Vì Charles có cơ hội chứng tỏ tình yêu của anh đối với anh mình còn lớn hơn lòng ganh ghét. Đối tuợng mà Caleb thương yêu nhất, quan tâm nhất không là ai khác ngoài ông bố. Caleb lúc đó chỉ cần sự tha thứ của ông bố. Trong tột cùng của sự đau buồn ông Adam đã tha thứ cho Caleb với một điều kiện “Timshel”, tôi tin Caleb sẽ vượt qua vì Caleb không cô đơn trong trận chiến nội tâm đó. Sự tàn ác, lòng hận thù, ghen ghét của con người thật là khủng khiếp, dữ dội và nghiệt ngã. Và chỉ có tình yêu mới giúp cho con người “Ngươi có thể chế ngự nó”. Cám ơn tác giả.

Nguyễn Khắc Hân

Khúc hát đêm - Kahlil Gibran

(Người dịch: Năng Chi Trần Văn Phương)

Đêm trở nên tịch mịch
Mộng ẩn mình trong lặng yên
Trăng đang lên
Dõi mắt chờ đón ngày

Hỡi người con gái đồng nội, xin em hãy đến
Nào ta cùng
Vào vườn nho
Nơi tình nhân gặp gỡ
Biết đâu ở đó
Với rượu tình nồng thắm
Ta có thể làm nguôi cơn khát tột độ của đam mê

Nào, hãy lắng nghe chim hoa mi
Đang cất vang tiếng hót
Vào thung lũng
Có đồi làm toả ngát hương xanh bạc hà

Đừng sợ nghe em, hỡi người yêu dấu
Sao trời sẽ giữ kín bí mật lần ta gặp gỡ
Và sương đêm mịn màng
Sẽ chẳng để ai thấy đôi mình trong vòng tay nhau

Đừng sợ nghe em
Cô dâu trẻ miền hoan lạc
Đang ngủ trong hang động thần tiên
Say men tình ái
Như lẩn tránh được
Cái nhìn của tiên nga

Giá như vua miền hoan lạc có dạo bước qua đây
Thì tình yêu sẽ khiến Người quay lại
Vì Người chẳng phải là tình nhân như ta sao
Và liệu Người sẽ không tiết lộ những gì
Làm tim mình đau khổ?

Nguồn: Cõi thơ (Kahlil Gibran, Song ngữ Anh-Việt)/ NXB Đà Nẵng, 1998.